Hỏi đáp sức khỏe

Những bệnh lây qua đường tình dục thường gặp

Họ tên: Bác sĩ Hoàng Thị Bình Nguyên
Hỏi:

Nếu như không được điều trị kịp thời và đúng lộ trình, bệnh hoa liễu sẽ để lại tác hại nặng hơn và lâu dài cho sức khỏe thể chất. Bệnh thường xuất hiện ở người trong nhóm tuổi sinh sản, diễn biến âm thầm, khó điều trị, dễ mắc bệnh trở lại nên mỗi người cần có giải pháp phòng tránh để bảo vệ bản thân và người xung quanh một biện pháp hữu hiệu.

Bệnh hoa liễu là gì?

Bệnh hoa liễu là một số bệnh gặp phải khi hoạt động tình dục, gồm những quan hệ qua bộ phận sinh sản, hậu môn – trực tràng và bằng miệng. Vi khuẩn, vi-rút hoặc ký sinh trùng mang nguồn lây có thể truyền từ người này sang người khác qua “dương khí”, dịch tiết âm đạo và các dịch tiết khác của cơ thể. Bệnh cũng có thể lây lan từ mẹ sang con khi có bầu, sinh nở hoặc qua truyền máu hay sử dụng chung kim chích.

Hiện tại, các nhà nghiên cứu ghi nhận được có ước tính 20 loại bệnh stds. Bệnh có số lượng người nhiễm rất lớn, nhất là người trong nhóm tuổi sinh sản, khó điều trị khỏi hoàn toàn, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe cơ thể và chất lượng cuộc sống như gây các hội chức đau vùng xương chậu mãn tính, viêm đường sinh dục, về trong thời gian sắp tới có thể dẫn đến vô sinh hiếm muộn.

Dấu hiệu khi nhiễm bệnh tình dục

Đặc điểm của các bệnh hoa liễu là không gây triệu chứng đặc trưng nên người nhiễm bệnh thường không biết mình có bệnh và dễ lây nhiễm cho người khác. Theo các bác sĩ đầu ngành nam học, hệ thống bvđk tâm anh, căn cứ vào loại bệnh, giai đoạn, trạng thái sức khỏe của từng người mà biểu hiện của các bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể khác biệt.

Nếu bạn là đàn ông

  • Đau nhức hoặc khó chịu khi hoạt động tình dục
  • Tiểu khó
  • Xuất hiện vết loét hoặc phát ban ở trên hoặc lân cận dương vật, tinh hoàn, vùng hậu môn, mông, đùi, miệng…
  • Tiết dịch khác lạ hoặc xuất huyết từ "cậu nhỏ"
  • Sưng bệnh đau tinh hoàn

Nếu bạn là chị em phụ nữ

  • Đau rát, bí bách khi hoạt động tình dục
  • Tiểu khó
  • Hiện diện vết loét, sưng tấy hoặc phát ban ở khu vực âm đạo, quanh khu vực hậu môn, mông, đùi, miệng…
  • Khí hư bất thường hoặc xung huyết, có mùi khác thường
  • Ngứa rát bên trong hoặc gần kề âm đạo
  • Nhiệt độ cơ thể tăng cao
  • Đau hạ vị

Triệu chứng của các bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục có thể không rõ ràng hoặc rất dễ hiểu nhầm với các chứng bệnh khác. Người nhiễm bệnh nên đến bệnh viện ngay, nếu nhận thấy biểu hiện bệnh nêu trên hoặc xác định là đã tiếp xúc với người mắc bệnh.

https://muasamcong.mpi.gov.vn/web/phathaithaiha/home/-/blogs/15-ia-chi-phong-kham-phu-khoa-uy-tin-o-au-tot-nhat-tai-ha-noi

http://bvtamthan.benhvientamthan.danang.gov.vn/web/suckhoe24gio/home/-/blogs/dia-chi-phong-kham-phu-khoa-uy-tin-ha-noi

https://linkhay.com/link/2761293/benh-xa-hoi-kham-o-dau

https://suckhoe24gio.gitbook.io/suckhoe24gio/kham-benh-xa-hoi-o-dau-tot-nhat

https://ameblo.jp/phongkhambenhtri/entry-12689598866.html

https://khamnamkhoathaiha.com/kham-benh-xa-hoi-o-dau-tot-nhat-ha-noi-102318.html

https://suckhoe24gio.postach.io/post/benh-vien-da-lieu-kham-benh-xa-hoi-o-ha-noi

Các căn bệnh lây qua đường tình dục thường gặp

Lậu mủ

Vi khuẩn gây bệnh lậu là vi khuẩn lậu, một song cầu gram (-) hạt cà phê, với đường lây qua đường sinh dục, đường miệng hoặc lỗ nhị. Bà bầu mắc lậu cũng có thể truyền sang con trong quá trình sinh sản.

Lậu mủ có thời gian ủ bệnh ngắn ước lượng 2-7 ngày. Ở đấng mày râu, nhiễm bệnh lậu cầu không biểu hiện rất thường ít gặp (3% – 5%). Lậu có thể gây nên đau khi tiểu tiện, chảy mủ từ "cậu bé". Nếu như không được chữa trị, bệnh sẽ gây ra các vấn đề với tuyến tiền liệt và tinh hoàn. Ở nữ giới, 70% các trường hợp có mầm móng lậu cầu nhưng không có triệu chứng. Biểu hiện ban đầu thường nhẹ hơn, nhưng nếu như không được chữa trị cũng có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm như viêm vùng chậu, vô sinh hiếm muộn, sẩy thai…

Bệnh lậu có thể phối hợp với các yếu tố khác như : chlamydia trachomatis, trùng roi ureaplasma, mycoplasma…
Lậu mủ sẽ được điều trị bằng thuốc kháng sinh, nhưng khả năng mắc bệnh trở lại cao do các chủng vi trùng nhờn thuốc ngày càng tăng cao.

Giang mai

Giang mai cũng là một bệnh xã hội do xoắn khuẩn giang mai treponema pallidum gây nên, lây nhiễm sang khu vực sinh dục, môi, miệng hoặc hậu môn - trực tràng của cả nam và nữ. Bệnh trải qua ba thời kỳ, nhưng có ước lượng 50% bệnh nhân không có biểu hiện và chỉ được chẩn đoán bằng huyết thanh.

Trường hợp giai đoạn đầu, giang mai thường gây nên một vết loét nhỏ, không đau, đôi lúc gây ra sưng ở các hạch bạch huyết gần đó. Trong trường hợp không được điều trị, bệnh thường gây phát ban trên da không ngứa rát trên bàn tay và bàn chân. Bệnh giang mai gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, có thể còn là có thể gây mất mạng.

Bệnh giang mai có thể điều trị khỏi bằng thuốc antibiotic, nếu được nhận biết sớm. Tuy nhiên, chìa khóa để tránh mắc bệnh là sử dụng "áo mưa" khi sinh hoạt tình dục, tránh quan hệ qua đường hậu môn hoặc miệng.

Bệnh trùng roi trichomonas vaginalis

Bệnh trùng roi trichomonas là một trong số những bệnh lây nhiễm qua đường tình dục phổ biến, do một loại ký sinh trùng gây. Bệnh lây từ người này sang người khác thông qua sinh hoạt tình dục và nhiều người gần như không có bất cứ triệu chứng nào. Trong trường hợp có, các dấu hiệu sẽ hiện diện dao động 5-28 ngày sau khi bị lây truyền.

Nếu bạn là phái nữ, bệnh gây các biểu hiện tiết huyết trắng màu vàng xanh, xám; đau khi hoạt động tình dục hay đi tiểu; âm đạo có mùi hôi và ngứa rát… ở đàn ông, bệnh gây nên ngứa hoặc dị ứng bên trong "cậu nhỏ", nóng rát sau khi tiểu tiện hoặc phóng tinh, tiết dịch từ dương vật… nhiễm trùng roi trichomonas có thể làm tăng rủi ro nhiễm bệnh hoặc bị lây truyền các bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục khác. Phụ nữ mang thai bị nhiễm trichomonas thường hay sinh con quá sớm và bé khả năng bị nhẹ cân khi được sinh ra.

Bệnh herpes sinh dục

Bệnh mụn rộp sinh dục (genital herpes) là một bệnh lây nhiễm qua đường sinh dục do virus herpes gây. Dấu hiệu lâm sàng là hồng ban mụn nước, mọc thành chùm tại cơ quan sinh dục và có hạch khu vực trong tỉ lệ. Bệnh có khả năng tái phát cao ở vị trí cũ hoặc ở một số vị trí khác. Vi-rút gây bệnh là herpes simplex (hsv), phổ phát type 2 nhiều hơn type 1.

Mụn rộp sinh dục không có triệu chứng điển hình nên thường chỉ có thể phát hiện qua các đợt nổi lên. Người bệnh bị lở loét gần khu vực mà virus đã xâm nhập vào cơ thể. Các vết loét triệu chứng dưới dạng mụn nước, khi vỡ ra gây đau đớn.

Triệu chứng nhiễm bệnh mụn rộp sinh dục có thể nặng hơn hơn ở trẻ sơ sinh hoặc người có hệ miễn dịch kém.

Các lần bùng bộc phát bệnh thường lặp đi lặp lại nhiều lần và đặc biệt thường gặp trong năm mới đầu bị lây bệnh và sẽ tồn tại trong cơ thể bệnh nhân suốt quảng đời còn lại. Ngày nay, thuốc chỉ có thể giúp giảm bớt các dấu hiệu và giảm rủi ro truyền vi-rút cho người khác, không thể chữa khỏi hoàn toàn.

http://khamnamkhoathaiha.emyspot.com/blog/tac-hai-cua-mun-rop-sinh-duc.html

http://suckhoeviet.blogg.org/herpes-sinh-duc-co-tu-khoi-khong-a183183248

https://www.feedsfloor.com/education-and-training/thuoc-dong-y-dieu-tri-mun-rop-sinh-duc

https://khamnamkhoathaiha.com/benh-gai-sinh-duc-nam-gioi-va-gai-sinh-duc-nu-102198.html

Bệnh sùi mào gà

Bệnh sùi mào gà là một bệnh lây nhiễm qua đường tình dục phổ phát do vi-rút human papillomavirus (hpv) gây. Bệnh hiện diện ở cả nam giới và nữ, nhưng phổ biến ở nữ hơn do môi trường âm đạo thuận lợi cho vi khuẩn phát triển. Biến chứng của bệnh mào gà rất phức tạp. Ở bà bầu, bệnh gây sảy thai, thai chết lưu hoặc sinh non. Thai nhi cũng khả năng bị lây bệnh sau thời điểm sinh hoặc nhiễm bệnh khi bú mẹ. Thậm chí, bệnh sùi mào gà còn gây ra nhiều di chứng như ung thư cổ tử cung, ung thư dương vật… dẫn tới bệnh vô sinh, hiếm muộn hoặc cái chết.

Khi hiện diện bên trong cơ thể, vi-rút ẩn náu tại lớp biểu mô thuộc tầng dưới cùng của da và không có biểu hiện cơ năng; các dấu hiệu ngứa, bỏng, đau, xung huyết ít gặp. Ở chị em có thể có tiết dịch âm đạo do bội nhiễm.

Vi-rút human papilloma virus sau khi sau thâm nhập vào cơ thể sẽ có thời gian ủ bệnh vài tháng đến vài năm. Bệnh có dấu hiệu như nổi các nốt hay sẩn nhỏ, u nhú màu hồng hoặc trắng hồng. Kích cỡ lúc đầu từ 1 – 2 mm, rồi tiến triển to dần, sùi lên tạo ra các khối to giống bông cải hoặc như mào con gà, thường không đau.

Bề mặt nhấp nhô. Khối u nhú này có tính chất khô hoặc ẩm ướt, dịch có mùi hôi do viêm nhiễm. Có khi chỉ có một vài thương tích riêng lẻ nhưng thường chủ yếu thành từng đám. Ở đàn ông, vị trí xuất hiện phổ phát ở quy đầu, rãnh quy đầu, mặt trong bao da quy đầu, vùng dây thắng, thân dương vật, da bìu, bẹn, mông, đùi. Tổn thương cũng có thể tiếp diễn bên trong lỗ sáo, niệu đạo; ống lỗ nhị hay quanh hậu môn; niêm mạc miệng.

Gai sinh dục

Virus gây u nhú sinh dục là human papillomavirus, lây chủ yếu qua sex trực tiếp với người có virus hoặc qua các đụng chạm da kề da, thân mật khác. Bệnh gây ra tiến triển quá mức các tế bào vảy ở lớp biểu bì gây nên u nhú sinh dục tại cả hai giới. Gai sinh dục gồm 4 lớp: lớp sừng, lớp gai, lớp tinh và lớp đáy.

Hầu như các trường hợp nhiễm u nhú sinh dục sẽ tự không còn nữa và không gây ra di chứng. Nhưng cũng có quá nhiều trường hợp gây ra nhiễm khuẩn kéo dài, dẫn đến thay đổi tế bào. Nếu một vài thay đổi này không được chữa trị sẽ chuyển biến xấu đi theo thời gian và trở nên ung thư.

Khi đã nhiễm hpv thì không thể điều trị được. Người mắc bệnh có thể được khuyến nghị đốt lạnh, đốt nóng, làm tiểu phẫu cắt đi, sử dụng thuốc hoặc những giải pháp chữa dành cho tế bào nhiễm vi-rút hpv có nguy cơ ung thư cao.

Căn nguyên gây nên bệnh tình dục

Theo các bác sĩ chuyên khoa nam học, hệ thống bvđk tâm anh, có vô vàn căn nguyên gây bệnh xã hội. Cụ thể như:

  • Lậu mủ, giang mai và bệnh chlamydia là một vài ví dụ đặc trưng về bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục do vi trùng gây ra. Vi trùng có khả năng sinh sản khẩn trương và thải ra độc tố làm hư hỏng mô, tấn công cơ thể người nhiễm bệnh.
  • Những sinh vật này sử dụng sinh vật sống khác để làm thực phẩm và nơi trú ngụ. Chúng ta có thể bị nhiễm ký sinh trùng từ thực phẩm, nguồn nước bị ô nhiễm hoặc qua quan hệ tình dục…
  • Các bệnh lây lan qua đường tình dục do virus gây ra bao gồm hpv, mụn rộp sinh dục và hiv. Virus là một số vi khuẩn rất nhỏ, thâm nhập vào các tế bào khỏe mạnh, dùng các tế bào đó để nhân lên. Vi rút có thể giết chết, làm hỏng hoặc thay đổi cấu tạo tế bào và gây bệnh cho con người.

Một số tác nhân có thể làm tăng rủi ro mắc các bệnh lây qua đường tình dục bao gồm:

  • Quan hệ tình dục không an toàn: việc hoạt động tình dục nhưng không sử dụng hoặc dùng "ba con sói" sai cách làm tăng đáng kể rủi ro mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục. Sex bằng miệng có ít rủi ro hơn, nhưng vẫn có thể nhiễm bệnh nếu có thương tổn hở.
  • Đối tượng có nhiều bạn tình càng có quan hệ tình dục với nhiều người càng khả năng bị lây bệnh cao hơn do đụng chạm với nhiều nguồn nguy hiểm.
  • Các bệnh này rất dễ bị lây truyền và tái đi tái lại nhiều lần trong đời, tác động đến chất lượng cuộc sống của người nhiễm bệnh.
  • Dùng quá nhiều rượu, thuốc kích thích: việc dùng các chất này có thể ngăn cản khả năng phỏng đoán, khiến người ta chuẩn bị sẵn sàng tham gia vào các hành động tình dục khả năng cao.
  • Sử dụng chung kim tiêm: người thường sử dụng chung kim tiêm, vật dụng cá nhân của người khác rất dễ bị lây bệnh gồm những viêm gan b, viêm gan c và bệnh hoa liễu.
  • Người trẻ tuổi: người có hoạt động tình dục càng sớm càng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Chi tiết như người trong độ tuổi từ 15- 24.
  • Lây từ mẹ sang con: một vài bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục có thể truyền từ mẹ sang con khi có bầu hoặc sinh đẻ, ảnh hưởng nặng hơn đến sức khỏe của trẻ sơ sinh, thậm chí có thể gây cái chết.

Biến chứng của bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục

Bệnh lây truyền qua đường tình dục rất dễ lây, khó chữa khỏi, dễ mắc bệnh trở lại và có thể để lại nhiều biến chứng nguy hiểm. Chi tiết như:

  • Gặp biến chứng thai kỳ: phụ nữ mang thai có thể sảy thai, sinh non và lây bệnh cho trẻ sơ sinh khi có bầu, sinh sản hoặc cho con bú.
  • Đau nhức dữ dội, đau thành từng cơn, nặng nề sâu trong khu vực xương chậu có thể do bệnh hoa liễu gây.
  • Bệnh mào gà, bệnh giang mai có thể gây ra bệnh cho nhãn cầu, viêm kết mạc, viêm màng bồ đào, viêm võng mạc, viêm thượng củng mạc… dẫn đến bệnh mắt mãn tính và dễ gây nên mù lòa.
  • Những loại vi khuẩn gây ra bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục, điển hình như lậu cầu, có thể gây viêm khớp, phân lập dịch khớp. Người nhiễm bệnh sẽ có triệu chứng viêm khớp cấp tính, tràn dịch khớp, làm giảm vận động…
  • Người bệnh đường tình dục rất dễ mắc bệnh tim do vi sinh vật đi vào máu và tấn công tim.
  • Những bệnh lây qua đường sinh dục có thể làm thương tích bộ phận sinh dục nam và nữ như: bệnh đau tinh hoàn, viêm buồng dạ con, viêm tắc ống dẫn trứng… ảnh hưởng đến chức năng sinh sản, có khi còn là gây vô sinh.
  • Một vài loại ung thư ở cổ tử cung, trực tràng, "cậu bé" có liên quan đến virus human papilloma virus.

Biện pháp điều trị bệnh hoa liễu

Căn cứ vào loại bệnh lây nhiễm qua đường tình dục mắc phải mà người mắc bệnh được khuyến nghị điều trị bằng nhiều hình thức riêng biệt. Điển hình như:

  • Chữa trị bằng kháng sinh

Thuốc antibiotic có thể được khuyến nghị để chữa trị bệnh truyền nhiễm do lí do vi khuẩn như bệnh giang mai, bệnh lậu, trichomonas… người bệnh cần thiết phải làm theo lộ trình và kiêng sinh hoạt tình dục trong thời gian chữa trị để đạt hiệu quả tốt nhất.

  • Chữa bằng thuốc kháng vi-rút

Các loại vi-rút như hpv, bệnh nhân sẽ không được chỉ định sử dụng thuốc kháng sinh, mà sử dụng thuốc kháng vi rút. Khi sử dụng thuốc này, người bệnh vẫn có thể lây nhiễm truyền bệnh cho người khác nên cần phải làm theo chỉ dẫn chữa và cần được xét nghiệm y khoa lại để review hữu hiệu.

  • Chữa bằng tiểu phẫu, thủ thuật ngoại khoa

Biện pháp khác để chữa trị bệnh hoa liễu là dùng thủ thuật ngoại khoa, phẫu thuật. Cụ thể, người nhiễm bệnh có thể được đốt điện, áp nitơ lỏng, đốt bằng tia laser… các chỗ da có virus để hủy hoại nguồn bệnh từ sâu bên trong.

  • Chữa dự phòng cho bạn tình

Bệnh lây nhiễm qua đường tình dục rất dễ mắc bệnh trở lại, nhất là khi người người tình không được điều trị cùng lúc với bệnh nhân. Vì thế, người nhiễm bệnh nên thông báo với “đối tác” về tình trạng bệnh để họ được kiểm tra, xét nghiệm y khoa. Đồng thời, họ cũng cần được điều trị ngoài ra với người nhiễm bệnh để phòng chống nguy cơ tái nhiễm.